Bali mùa yêu thương – P4: Lướt “ghế” ở KL.

Chẳng mấy chốc ngày khởi hành đã đến, mình lên đường bay đi KL, lòng háo hức khó tả. Năm 2012, mỗi ngày Air Asia chỉ có hai chuyến bay Sgn – Kul sáng chiều. Đến bây giờ hãng đã mở rộng đến 4 chuyến một ngày, mới thấy nhu cầu vé máy bay giá rẻ của dân Việt Nam phát triển nhanh như thế nào, đi kèm đó là hoạt động của các hãng hàng không giá rẻ ngày càng mở rộng. Hôm ấy mình chọn chuyến bay sáng, đến sân bay LCCT (sân bay dành cho các hãng hàng không giá rẻ của Malaysia) lúc 11h30, ngồi đợi các bạn đồng hành. Đến gần 3 giờ chiều, cả nhóm đã tập hợp đủ và cùng nhau về trung tâm thành phố.

Bên trong tàu KLia Express, với những hàng ghế tím đặc trưng.

Ở sân bay LCCT, bọn mình mua vé RapidKL để về KL, gồm hai chặng, một chặng xe buýt LCCT – Putrajaya, rồi từ Putrajaya đi KL Sentral, nhà ga trung tâm của thành phố. Từ đó lại chuyển tàu để đi tiếp đến Cempaka, là nơi host của bọn mình ở. Đến nơi, bọn mình hỏi những người xung quanh làm thế nào để đi đến địa chỉ nhà host. Nhưng không ai biết chính xác địa chỉ đó ở đâu, vì quanh đó có rất nhiều chung cư với cái tên như thế. Mình đang loay hoay định lấy tiền xu gọi điện thoại cho host thì cô bạn mình đã nhanh chóng nhờ một người phụ nữ lớn tuổi lúc nãy chỉ đường tụi mình để gọi cho host. Anh bảo anh sẽ tới ngay. Thế là cả bọn ngồi trên băng ghế đá ngoài ga điện ngầm để chờ anh tới. Vẫn đang ngồi chờ xe buýt, bác gái tốt bụng đó bắt chuyện với tụi mình, hỏi tụi mình từ đâu tới. Khi nghe từ Việt Nam, bác ồ lên thích thú và bảo bác mới đi du lịch Việt Nam về, ghé thăm Sapa và Hạ Long. Hỏi chuyện, biết bọn mình đứa ba nơi cùng gặp nhau ở KL để du lịch KL và Bali, bác mỉm cười pha lẫn ngạc nhiên. Khi xe buýt đến, bác chào từ biệt và không quên chúc tụi mình một chuyến đi vui vẻ. Cả nhóm vẫy tay tạm biệt bác gái, tiếp tục căng mắt về phía con đường dốc trải dài bên ngoài ga tàu điện để tìm bóng dáng anh host.

Đã xem kỹ từng tấm hình của anh chủ nhà trên Couchsurfing, nhưng mình chỉ nhớ là anh có một mái tóc xoăn dài rất đặc biệt, khó lẫn với ai khác. Thế là cả bọn mục kích vào các anh tóc dài. Xa xa, một thanh niên có mái tóc ngang vai, mặc áo đỏ đi từ từ đi lại. Tụi mình nhủ thầm, chắc là anh này. Nhưng anh thanh niên tỉnh bơ lướt qua tụi mình và đi thẳng vào ga tàu. Một lát sau, lại có một chàng trai tóc búi áo đen xuất hiện trên con đường nhựa. Nhưng khi đến gần, bọn mình hụt hẫng nhận ra anh này có vẻ quá trẻ so với lứa tuổi trên ba mươi của Che Bern. Không phải người này rồi.  Chờ một lúc lâu, có ba bốn anh chàng tóc dài đi qua, mà không có ai có vẻ là anh chủ nhà của bọn mình cả. Cuối cùng, một người đàn ông dong dỏng cao hiện lên từ sau con dốc, mái tóc dài quá vai tung bay một cách hoang dại, khuôn mặt rạng rỡ cười và hai cánh tay đan chéo theo kiểu “defense” hơi cuối xuống chào bọn mình. Tụi mình mừng rỡ đi lại phía anh, chào làm quen. Bạn mình bảo cả nhóm ai cũng lấy mái tóc dài của anh để định danh, nhưng ở đây hóa ra quá nhiều người thích để tóc kiểu nghệ sĩ. Rồi mọi người vừa cười vừa nói, cùng băng qua con dốc, xuôi theo cây cầu và đi về nhà host.

Nhà Che Bern họa sĩ là một căn hộ tầng trệt của một chung cư. Xung quanh, nhiều block nhà tương tự đều lấy tên là tên chung của cả khu vực hành chính, hèn chi rất khó để biết được chính xác địa chỉ. Căn hộ rộng khoảng 60m2, được xây dựng rất đơn giản, đủ để đáp ứng nhu cầu sống tối thiểu của con người. Tuy nhiên, cách bài trí vừa khoa học lại vừa nghệ thuật của Bern giúp không gian sống rộng rãi hơn diện tích thật của nó. Phòng khách với những bức tranh lớn với các họa tiết trừu tượng. Nhìn từ cửa ra vào, một bộ sofa ở góc trái với những chiếc gối ôm mềm mại như phương thuốc cấp kỳ cho người khách phương xa, thoải mái ngả lưng và duỗi thẳng đôi chân mệt mỏi. Giữa phòng là tấm thảm lông dày, nơi chủ nhà và khách khứa trò chuyện, hay chỗ cho con trẻ bày đồ chơi và lăn lê bò toài. Giá sách được thiết kế nhỏ gọn ở khoảng tường phía trên sofa. Cạnh sofa là kệ đựng nhạc cụ, guitar, mandoline và một số loại đàn dây lạ mắt, còn ở góc phải là tivi và dàn loa trông khá hoành tráng. Gần cửa ra vào, Bern thiết kế một tủ gỗ nhỏ đựng các món đồ lặt vặt ở phòng khách, thuốc men, chìa khóa, mũ bảo hiểm…  Những món đồ handmade nhỏ nhỏ xinh xinh trên kệ tủ làm ngôi nhà tăng thêm tính độc đáo của nó. Nhà có ba phòng riêng, với hai phòng ngủ, phòng còn lại được biến thành phòng làm việc, với máy tính, khung vẽ, đủ loại màu nước và giấy tờ với nhiều phác thảo, góc để sơn và bàn in để in tranh, áo thun. Khu còn lại là phòng bếp được sắp xếp gọn gàng còn hơn bếp của mấy cô sinh viên nhà mình, với những chiếc muôi được vẽ tay độc đáo, và phòng tắm và toilet khá đơn giản.

Những chiếc muôi nhiều màu sắc trong bếp nhà Bern.
Nhà chàng nghệ sĩ có kiểu trang trí ngộ nghĩnh giống vầy.
Nguồn: Che Bern

Trong phòng khách, ở bức tường đối diện cửa ra vào là một cánh cừa sổ lớn, hướng về phía đông nam, cung cấp ánh sáng và không khí trong lành cho cả ngôi nhà. Trong lúc tụi mình đang ngồi nghỉ mệt ở sofa, Bern dựa lưng vào tường, nhìn ra cửa sổ, mỉm cười chỉ cho mình thấy cậu con trai Kimi đang đá banh cùng bạn bè ngoài sân chơi. Chỉ lát sau, một cậu bé gầy gò đen nhẻm chạy xộc vào nhà như cơn lốc nhỏ, sững người nhìn ba vị khách lạ. Cha cậu nói một vài câu bằng tiếng Malay, nhưng Kimi cứ hết nhìn cha rồi nhìn sang chúng tôi với vẻ vừa lạ lẫm vừa dè chừng. Mình nín cười, lấy trong balo ra gói Vinamit đã chuẩn bị sẵn, gọi cậu bé: “Kimi, aunty có quà cho con đây.” Thấy những người bạn nước ngoài của mình rất khoái các món trái cây sấy của Vinamit, mình mua làm quà, nhân tiện quảng bá nông sản Việt Nam. Mân mê gói mít sấy trên tay, cậu bé ngần ngừ rồi lại nói với cha bằng tiếng Mã Lai với giọng điệu có phần bức xúc. Bern cười, giải thích: “Kimi nói rằng bây giờ chưa ăn được, vì hôm nay vẫn còn trong tháng Ramadan.” Thế là cả bọn mới à ra vỡ lẽ.

Ramadan là tháng thứ chín trong lịch đạo Hồi. Vào tháng này, người Hồi không ăn uống hay đưa bất kỳ thứ gì vào miệng từ khi mặt trời mọc đến khi mặt trời lặn. Nhóm mình sang KL vào ngày 19/8, đúng vào ngày cuối cùng của kỳ lễ Ramadan. Mình đã không biết gia đình của Che Bern theo đạo Hồi cho đến khi anh nói về Ramadan, nên hơi ngạc nhiên. Nhưng biết anh theo đạo Hồi lại càng hay, vì mình luôn cảm thấy hứng thú tôn giáo này. Những người không hiểu về đạo Hồi thường có cái nhìn tiêu cực, e ngại, cho rằng tất thảy người Hồi ai cũng hung hăng, ưa bạo lực và tống tiền, hoặc họ thuộc về các băng nhóm khủng bố hay đánh bom liều chết như Al Qaeda. Nhưng thực ra người Hồi cũng là con người thôi, nghĩa là có người tốt, kẻ xấu, thế này thế nọ. Cũng như các tôn giáo trên đời, đạo Hồi hướng về những điều tốt đẹp, khuyên nhủ người ta làm việc thiện. Mình có quen một số người bạn theo đạo Hồi, đa phần họ là những con người hiền lành, chăm chỉ và tốt bụng. Bọn mình ngồi say sưa nghe Bern kể về cuộc sống của anh, về đạo Hồi.

Bern bảo trước đây anh làm thiết kế cho các công ty nội thất. Nhưng họ yêu cầu anh cắt tóc ngắn, đi làm đúng giờ. Anh bảo tóc anh là một phần thân thể của mình nên không cắt được. Còn tính cách phóng khoáng tự do của anh không thích hợp với khuôn khổ gò bó giờ giấc của môi trường văn phòng. Thế là làm được một thời gian, anh quyết định nghỉ và tự mở xưởng vẽ riêng. Cuộc sống khá chật vật nhưng tự do. Hầu hết đồ đạc trong nhà đều do Bern tái chế và thiết kế. Cái sofa mà bọn mình rất thích là Bern sửa lại từ một bộ sofa cũ của người bạn. Kệ sách cách điệu cũng là gỗ cũ người ta bỏ đi, anh đem về sơn sửa và trang trí. Mình ngồi nghe Bern kể vừa khâm phục anh chàng. Từ những thứ tưởng như không dùng được nữa, đến tay Bern trở thành những vật độc đáo và hữu dụng. Bern kể anh muốn giúp Kimi nói tiếng Anh thật tốt, nhưng không có tiền cho con đi học các trường học đắt tiền của người Hoa. Nên việc anh host dân du lịch một phần cũng là để giúp Kimi dạn dĩ hơn và phát triển kỹ năng tiếng Anh của cậu bé. Anh bảo ngày cuối cùng của Ramanda, thông thường vào ngày hôm sau mọi người sẽ tổ chức lễ cầu nguyện và ăn mừng rất lớn (giống như dịp tết Nguyên đán của người Việt mình). Mình hỏi anh holiday vậy anh có làm gì đặc biệt không, anh bảo đối với anh ngày nào cũng là holiday cả, thế là cả bọn cùng cười vang.

Ngồi nói chuyện một hồi lâu, nhìn ra ngoài thấy trời vẫn sáng mờ mờ, cứ tưởng vẫn còn sớm, nhưng nhìn đồng hồ đã gần 7h tối. Bọn mình quyết định đi ăn rồi tiễn anh bạn trong nhóm mình về nhà host của ảnh ở cách đó vài chục cây số. Nhưng Bern bảo: nếu không ngại, anh cứ ở đây luôn đi, nhà còn chỗ mà. Bọn mình vừa bất ngờ vừa cảm động vì lòng tốt của Bern. Thế là cả bọn vui vẻ sắp xếp lại hành lý, tắm rửa và ra ngoài ăn tối. Bern dẫn tụi mình ra khỏi khu chung cư, tới một quán ăn bán đồ Ấn gần nơi anh ở. Vừa mệt vừa đói, bọn mình liền gọi mỗi người một phần cơm to để bù lại năng lượng. Nhưng Bern và Kimi vẫn chưa ăn, vì phải đợi đến 8h tối, khi mặt trời xuống hẳn, mới dùng bữa tối. Cậu bé nhìn các món ăn được bày ra với vẻ thèm thuồng, nhưng vẫn kiên quyết đợi đến đúng giờ. Thấy có vẻ tội nghiệp, mình phân vân không biết có nên chờ để cùng ăn không, nhưng Bern khoát tay giục mình ăn trước. Thế là các nhân viên của cửa hàng chứng kiến cảnh ba thực khách ngồi ăn hùng hục, bên cạnh hai cha con đang thong thả trò chuyện.

Sau bữa tối, tụi mình cùng nhau đi dạo thành phố KL về đêm và ngắm tháp đôi KLCC. Mình vốn không thích nhà cao tầng, khu mua sắm hay những thứ hào nhoáng sang trọng tương tự, nên dù có qua KL mấy lần vẫn chưa bao giờ ghé lại tháp đôi. Lần đầu tiên cận cảnh biểu tượng của Malaysia này, cảm giác bỗng hơi lạ lẫm. Từ khu Cempaka của Bern tới KLCC, chắc chỉ khoảng chục cây số, nhưng cứ như hai thế giới trái ngược nhau. Một bên bóng lộn xa hoa, một bên cơ bản, tối giản. Hai người bạn mình hòa cùng các du khách đổ về KLCC, hớn hở chụp hình tháp đôi, hồ phun nước nhân tạo và các khu phức hợp xung quanh. Trong khi cha con Bern nhìn mọi thứ với vẻ thờ ơ, họ không về thuộc về thế giới đó, hoàn toàn xa lạ với nó.

Petronas về đêm

Khi về nhà, cô bạn mình mệt quá nên nằm trên sofa ngủ quên trời đất. Kimi đòi cha dẫn đi mua pháo bông mừng lễ. Mình theo chân hai cha con ra ngoài mua pháo và đem ra sân chơi để đốt. Anh bạn mình cũng đi theo. Bern vừa châm lửa vừa nói: thực ra món này vừa nguy hiểm, vừa phí tiền, nhưng vì Kimi như một người bạn nhỏ của anh, nên những gì Kimi thích anh đều làm cho nó. Chiếc pháo xịt những tia lửa nhỏ chạy vòng vòng, rồi dừng lại và nổ tung tóe lên cao. Mình đứng nhìn Kimi hò hét vui vẻ bên cạnh cha cậu, lòng chợt thấy dịu dàng quá đỗi. Dù ở đâu, làm gì, công danh địa vị thế nào, con người ta cũng nên có những cách để tận hưởng những niềm vui riêng mình.

Khoảng 11h khuya, bạn của Bern dẫn con cái đến nhà chơi cùng ăn mừng hết tháng Ramadan. Họ vui vẻ chào mình và ngồi xoay vòng trò chuyện với nhau. Kimi và những đứa trẻ thì cùng chơi trò chơi điện tử và nhảy nhót bên cạnh. Bạn của Bern cũng giống anh, với vẻ ngoài ngầu bụi nhưng nụ cười rộng mở và thân thiện. Chơi với cả nhà một lúc, mình xin phép đi nghỉ sớm. Bern nhiệt tình hướng dẫn mình đem đồ vào chỗ ngủ, vốn là phòng của Bern và Kimi. Đó là một căn phòng nhỏ nhỏ nhắn và sạch sẽ, với một chiếc giường nhỏ và đồ đạc đơn giản. Trên nền, Bern trải sẵn cái nệm màu tươi sáng để mình và cô bạn có thêm chỗ nằm. Anh chúc mình ngủ ngon và nhẹ nhàng khép cửa lại. Mình đặt lưng lên giường, đánh một giấc ngon lành.

Sáng hôm sau tỉnh dậy, mình thấy cô bạn vẫn say ngủ ngay bên cạnh. Đang nằm trên giường nhìn ngó xung quanh, mình nghe tiếng cửa mở khe khẽ. Rồi bóng Kimi nhẹ nhàng đi vào, cười mím chi với mình một cái, lấy chiếc mũ cầu nguyện và khe khẽ đi ra. À, hôm nay cả gia đình phải đi nhà nguyện sớm. Ra ngoài phòng khách, thấy Bern và Kimi đều ăn mặc chỉnh tề, sửa soạn đi lễ. Mình chào anh, khóa cửa rồi quay trở vào. Ngôi nhà chìm trong yên tĩnh, ánh sáng nhợt nhạt hắt từ khe cửa, có tiếng vài con chim sẻ lích chích ngoài sân chơi. Người bạn đang ngủ trên chiếc sofa cựa mình tỉnh giấc, hé mắt nhìn mình. Anh ngồi dậy dụi mắt, nói hôm qua hơn 2h khuya mới ngủ được, vì mấy cậu bé chơi đùa nhảy nhót cả đêm. Anh đùa: “Lần đầu tiên surf nhà người bản xứ, anh ngủ nguyên đêm trên couch, thật đúng với tinh thần của Couchsurfing.” Mình bật cười. Quả nhiên du lịch kiểu này cũng có cái bất tiện, nhưng CS đưa dân du lịch đến những trải nghiệm thực hơn, đời hơn, mà kiểu du lịch theo tour, ở phòng khách sạn không thể nào bì được.

Tụi mình vào đánh thức cô bạn dậy rồi cùng nhau sửa soạn đi ăn sáng. Mình không thích đồ Ấn, nên cùng với cô bạn vào một quán bán đồ Trung Quốc, còn anh bạn kia thì thử ở tiệm ăn Nam Ấn gần đó. Tiệm ăn đông nghẹt các gia đình người Hoa đang cùng nhau ăn điểm tâm, quán này bán những món đặc trưng Trung Quốc như mì, hoành thánh, cơm gà kiểu Hải Nam… Đồ ăn ở khu Cempaka cũng khá rẻ, một đĩa cơm gà hoặc tô mì giá từ 3 – 5 ringgit, (3ringgit đổi 1 đô la), so với giá cả và mức sống gần gấp đôi Việt Nam, thì giá này chấp nhận được.

Ăn sáng và đi dạo loanh quanh một lát, bọn mình quay trở lại nhà Bern. Dự định đi thăm thành phố mới Putraraya và động Batu, nhưng vì khoảng cách di chuyển khá xa, chi phí tàu điện cao, và bọn mình lại bắt chuyến bay buổi chiều hôm đó qua Bali, nên cả bọn quyết định nghỉ ngơi lấy sức để chuẩn bị cho chuyến phượt Bali sắp tới. Ngồi chơi trò chuyện một lúc, thì Bern, Kimi và người em trai của anh về, em của Bern cũng để tóc dài như anh, cười tươi chào cả nhóm, còn Kimi thì đã bớt đi vẻ bẽn lẽn lúc đầu. Hai chú cháu sau đó dẫn nhau sang nhà ông bà nội chơi, trong khi Bern dẫn bọn mình vào phòng làm việc, bảo có cái này muốn cho tụi mình xem. Trên chiếc bàn ngổn ngang bút vẽ, giấy tờ, tranh ảnh, ba chiếc áo thun vẽ hình Hard Rock Cave (không phải Hard Rock Cafe) được đóng gói ngay ngắn. Chiếc áo với thiết kế “Made by Bern” và logo xưởng vẽ của anh phía sau, nhìn rất “unique”. Hỏi ra mới biết đêm hôm trước Bern thức tới 3 giờ sáng ngồi vẽ áo tặng bọn mình. Cả bọn vừa bất ngờ, vừa vui sướng, thi nhau thử áo và tíu tít chụp ảnh. Mình thực sự cảm động với tấm lòng của Bern, về cơ bản tụi mình chỉ là những lạ, nhưng anh đã mở rộng cánh cửa chào đón, tiếp đãi chu đáo, chia sẻ cuộc sống của anh, và dành cho những CSer này những điều tốt đẹp nhất, dù anh vốn không phải dư dả gì. Ngồi ngắm những tác phẩm của Bern, thấy phong cách khoáng đạt độc đáo của anh ánh lên trong từng nét vẽ, mình bảo: “Bern này, tôi nghĩ một ngày nào đó anh sẽ nổi tiếng.” Bern cười ha ha: “Ừ, tôi biết tôi sẽ nổi tiếng. Vấn đề chỉ là trước hay sau khi tôi chết thôi. Bạn biết đấy, tranh của các họa sĩ thường chỉ bán chạy sau khi họ qua đời.” Bọn mình cùng cười, nhưng trong lòng mình gợn lên chút chua xót về sự mâu thuẫn giữa nghệ thuật và cuộc sống, lý tưởng và hiện thực, luôn luôn tồn tại trên đời.

Sau một hồi nhìn ngắm, cô bạn mình rất hứng thú với những họa tiết in trên áo thun của Bern, hỏi anh có thể vẽ biểu tượng song ngư của cô lên chiếc áo cờ đỏ sao vàng mà cô mang theo được không. Bern bảo để hoàn thành chắc cũng mất nhiều thời gian, nên nói cô cứ để áo ở lại, chừng nào vẽ xong anh sẽ gửi bưu điện cho. Đang trò chuyện mình sực nhớ gói cafe Việt Nam vẫn để trong balô, nên lấy ra pha, mời cả nhà cùng thưởng thức. Vốn không phải là fan của cafe, nên mình cũng không biết công thức pha phù hợp. Cafe vừa loãng vừa nhạt, mà mọi người lại khen ngon cứ như Starbucks. Sau một lúc trò chuyện, trời dần chuyển trưa khiến ai cũng buồn ngủ. Cô bạn mình lại nằm trên chiếc ghế sofa đã trở nên quen thuộc, say ngủ như mọi khi. Mình và anh bạn ngồi trên thảm, rì rầm to nhỏ thảo luận cho chuyến đi, còn Bern thì khóa mình trong phòng làm việc, chắc đang mải vẽ cái gì đó. Ngôi nhà lại chìm trong tịch mịch. Mình nhìn lên trần nhà, tự nhủ trần hơi thấp làm không gian có vẻ mờ mờ tối, nhưng lại tạo cảm giác mát mẻ thoải mái. Thế rồi lăn ra ngủ lúc nào không biết.

Bern trong phòng vẽ của mình.
Nguồn: Mập đại ka.

3h chiều, anh bạn mình đánh thức cả nhóm dậy, đóng gói hành lý để chuẩn bị ra sân bay. Mình gõ cửa phòng Bern, chào tạm biệt anh. Bern vội vàng lấy chiếc áo của bạn mình ra, đưa cho cô với biểu tượng song ngư vừa ráo mực. Anh cặm cụi vẽ từ trưa đến giờ để kịp gửi trước khi tụi mình lên đường. Lại một lần nữa, Bern làm tụi mình bất ngờ với sự nhiệt tình và lòng mến khách vô bờ bến. Khỏi phải nói cô bạn của mình vui như thế nào. Mình cúi mặt xuống, thấy hơi ngượng vì đã làm phiền anh quá nhiều. Nhưng không còn nhiều thời gian nữa, bọn mình ôm tạm biệt anh và hẹn ngày gặp lại. Kimi đứng ở cửa, nhìn bọn mình xốc hành lý lên vai, lộ vẻ lưu luyến. Mình cúi xuống ôm cậu bé, bảo Kimi ơi, hôn tạm biệt aunty đi nào. Cậu thơm vào má mình, ngọt ngào, vẻ e dè đã biến đâu mất. Bern tiễn bọn mình đi một đoạn, bảo một ngày nào đó anh sẽ sang thăm Việt Nam. Và ngày đó, sẽ luôn có một chỗ cho anh ở Sài Gòn nắng ấm, Bern ạ.

Bern với Kimi và người em trai của anh.
Nguồn: Che Bern.

Fun Facts:

– Nói một chút về hệ thống giao thông công cộng ở KL. Giống như hầu hết các thành phố hiện đại khác, KL có một hệ thống tàu điện ngầm làm chủ lực. Hệ thống metro khá hoàn thiện khiến cho việc di chuyển trong KL, giữa KL với các sân bay, hay với các thành phố khác. Có nhiều tuyến đường sắt cùng hoạt động trong hệ thống metro ở KL, bao gồm đường sắt cao tốc (high speed transit), đường sắt hạng nhẹ (light rail transit – LRT), và loại đường sắt 1 ray. Tàu cao tốc chuyên chạy trong tuyến KLIA Ekspress nối giữa KL và sân bay quốc tế KLIA, nhưng thực chất chỉ là một loại tàu nhanh vì tốc độ trung bình chỉ khoảng 160km/h, thua xa tàu cao tốc ở Nhật vốn có tốc độ hơn 300km/h. Các tàu trong hệ thống LRT thì thường chạy khoảng 100km/h, thích hợp để đi lại di chuyển trong nội thành thành phố. Không thể không kể đến xe buýt công cộng, được thiết kế đan xen và kết nối chung trạm để hỗ trợ cho hệ thống tàu điện. Ở những nơi vùng ven thành phố, xe buýt là lựa chọn thay thế nhằm giảm chi phí đầu tư xây dựng tàu điện ngầm và tăng tính linh hoạt trong giao thông.

– Nhân tiện kể về thành phần các dân tộc ở Malaysia, có ba chủng tộc chính là người Malay bản địa (60%), người gốc Hoa (23%) và người gốc Ấn (7%) theo thống kê năm 2010. Người Hoa theo đạo phật, người gốc Ấn thì theo đạo Hindu, còn người Malay thì theo đạo Hồi. Hai thành phần dân tộc kia có vẻ không ưa nhau, nhưng người Malay bản địa thì sống hiền hòa giữa những tộc người khác.

– Hồi đó mình luôn thắc mắc tại sao ở Malay trời lại lâu tối hơn những nơi khác, 7 – 8 giờ tối mà cứ như 6 giờ chiều ở Việt Nam hay Thái Lan. Mãi đến gần đây mới biết rằng các quốc gia được phép chọn múi giờ cho mình. Và lý do trời ở Malaysia (và cả Singapore) luôn tối trễ hơn so với các nước láng giềng là bởi vì Malaysia chọn giờ quốc gia tăng lên một múi giờ so với múi giờ thực của quốc gia này. Vị trí địa lý của Malay cùng nằm trong múi giờ GMT + 7 như Việt Nam nhưng họ chọn múi giờ GMT + 8.

– Món cơm gà Hải Nam rất phổ biến ở Singapore và Malaysia, được bày bán ở khắp nơi. Thậm chí ở Singapore, món này còn được tôn lên làm quốc thực, dự triển lãm ẩm thực các nơi và được phục vụ làm món ăn chính trong các chuyến bay của Singapore Airline. Món này nhìn thì có vẻ hấp dẫn, nhưng ăn thì hơi ngán.

Leave a Reply